1. Tổng quan về bệnh dại

Bệnh dại
Bệnh dại

Bệnh dại là bệnh do virus dại (rabies virus) gây nên. Đây là một bệnh truyền nhiễm virus cấp tính của hệ thần kinh trung ương dẫn đến tử vong chắc chắn. Các triệu chứng ban đầu có thể bao gồm sốt và ngứa ran ở vết thương hoặc điểm tiếp xúc, sau đó là một hoặc nhiều triệu chứng sau: cử động dữ dội, hưng phấn không kiểm soát, sợ nước, không thể di chuyển các bộ phận của cơ thể, nhầm lẫn và mất ý thức.

Một khi đã xuất hiện các triệu chứng thì bệnh nhân sẽ chắc chắn là tử vong. Thời gian từ khi mắc bệnh và bắt đầu xuất hiện các triệu chứng thường là một đến ba tháng, có thể từ dưới một tuần đến hơn một năm, phụ thuộc vào khoảng cách virus di chuyển dọc theo dây thần kinh ngoại biên để đến hệ thần kinh trung ương. Bệnh dại có thể gặp ở tất cả động vật có vú.

Các chương trình kiểm soát động vật và tiêm phòng đã làm giảm nguy cơ mắc bệnh dại từ chó ở một số khu vực trên thế giới. Việc tiêm chủng cho người trước khi họ bị phơi nhiễm được khuyến khích cho những người có nguy cơ cao, bao gồm cả những người làm việc với dơi hoặc những người sống trong thời gian dài ở các khu vực trên thế giới có bệnh dại phổ biến.

Ở những người đã tiếp xúc với bệnh dại, thuốc chủng ngừa bệnh dại và đôi khi là globulin miễn dịch phòng bệnh dại có hiệu quả trong việc ngăn ngừa bệnh nếu người đó được điều trị trước khi bắt đầu có các triệu chứng bệnh dại. Rửa vết cắn và vết xước trong 15 phút bằng xà phòng và nước, povidone-iodine, hoặc chất tẩy rửa có thể làm giảm số lượng các phần tử virus và có thể phần nào hiệu quả trong việc ngăn ngừa lây truyền

2. Dấu hiệu và triệu chứng

Khoảng thời gian từ khi đã nhiễm trùng và các triệu chứng đầu tiên (thời gian ủ bệnh) thường là 1 đến 3 tháng ở người. Khoảng thời gian này có thể ngắn khoảng 4 ngày hoặc dài hơn 6 năm, tùy thuộc vào vị trí và mức độ nghiêm trọng của vết thương và lượng vi rút đưa vào. Các triệu chứng ban đầu của bệnh dại thường không đặc hiệu như sốt và nhức đầu. Khi bệnh dại tiến triển và gây viêm não và màng não, các triệu chứng có thể bao gồm tê liệt nhẹ hoặc một phần, lo lắng, mất ngủ, lú lẫn, kích động, hành vi bất thường, hoang tưởng, kinh hoàng và ảo giác. Người bệnh cũng có thể sợ nước.

Các triệu chứng cuối cùng tiến triển thành mê sảng và hôn mê. Tử vong thường xảy ra từ 2 đến 10 ngày sau khi có triệu chứng đầu tiên. Khả năng sống sót của người bệnh hầu như không có khi các triệu chứng đã xuất hiện, ngay cả khi được chăm sóc đặc biệt.

Sợ nước

Bệnh dại đôi khi còn được gọi là Hydrophobia (“chứng sợ nước”) trong suốt lịch sử của nó. Nó đề cập đến một loạt các triệu chứng trong giai đoạn sau của bệnh này, trong đó người bệnh gặp khó khăn khi nuốt, tỏ ra hoảng sợ khi nhìn thấy chất lỏng để uống và không thể làm dịu cơn khát của họ. Bất kỳ động vật có vú nào bị nhiễm vi rút dại đều có thể mắc chứng sợ nước.

Việc tiết nước bọt tăng lên rất nhiều, và việc cố gắng uống, hoặc thậm chí có ý định hoặc muốn uống, có thể gây ra những cơn co thắt rất đau đớn của các cơ ở cổ họng và thanh quản. Vì người bị nhiễm không thể nuốt nước bọt và nước, nên vi rút có cơ hội lây truyền cao hơn nhiều, vì virus khi đó được nhân lên và đồng hóa trong các tuyến nước bọt và lây truyền qua vết cắn.

Chứng sợ nước thường liên quan đến bệnh dại cuồng, ảnh hưởng đến 80% số người nhiễm bệnh dại. 20% số người còn lại có thể trải qua một dạng bệnh dại liệt, biểu hiện bằng yếu cơ, mất cảm giác và tê liệt; dạng bệnh dại này thường không gây ra chứng sợ nước.

3. Bệnh dại lây truyền và phát triển ở người như thế nào?

Bệnh dại được lây truyền qua nước bọt của động vật mắc bệnh bài tiết ra ngoài và theo vết cắn, vết liếm, vết xước trên da bị rách (hoặc qua màng niêm mạc còn nguyên vẹn) vào cơ thể, từ đó theo dây thần kinh đến các hạch và thần kinh trung ương.

Khi đến thần kinh trung ương, vi rút sinh sản rất nhanh rồi lại theo dây thần kinh ra tuyến nước bọt. Tại thời điểm này, thần kinh chưa bị tổn thương đáng kể vì thế nhìn bề ngoài con vật vẫn bình thường nhưng nước bọt đã có vi rút dại. Sau đó, vi rút dại hủy hoại dần các tế bào thần kinh làm xuất hiện các triệu chứng lâm sàng điển hình của bệnh dại.
Sự lây truyền bệnh dại qua đường không khí đã được chứng minh trong quần thể loài dơi sống ở hang động và ở môi trường phòng thí nghiệm. Tuy vậy, cũng rất hiếm xảy ra. Sự lây truyền từ loài dơi hút máu bị nhiễm vi rút dại đến súc vật nuôi trong nhà cũng gặp ở Châu Mỹ La Tinh. Những loài dơi ăn sâu bọ bị nhiễm vi rút dại ở Mỹ rất hiếm lây truyền bệnh dại sang những súc vật sống trên mặt đất, kể cả súc vật hoang dã hoặc súc vật nuôi trong nhà.

Virus di chuyển dọc theo dây thần kinh đến tủy sống và não

4. Bệnh dại ở người có chữa được không?

Không có điều trị cụ thể khi bệnh dại phát triển. Hầu như không có gì có thể thực hiện được ngoài việc giữ cho bệnh nhân thoải mái, và không bị đau đớn về thể xác và khó chịu về cảm xúc.

  • Người chăm sóc nên thận trọng để tránh bị cắn và nhiễm nước bọt của màng nhầy và vết thương bằng cách sử dụng thiết bị bảo vệ y tế cá nhân.
  • Giữ bệnh nhân trong phòng yên tĩnh với ánh sáng dịu và bảo vệ họ khỏi các kích thích (ví dụ: tiếng ồn lớn, không khí lạnh) có khả năng làm tăng co thắt và co giật.
  • An thần với diazepam 10 mg cứ sau 4 giờ 6 giờ, được bổ sung bởi chlorpromazine 50 sắt 100 mg hoặc morphin tiêm tĩnh mạch nếu cần thiết sẽ giúp kiểm soát co thắt cơ bắp và dễ bị kích thích.
  • Cho ăn bằng miệng thường là không thể. Chất lỏng nên được tiêm tĩnh mạch.

5. Cần làm gì khi nghi ngờ bị bệnh dại?

5.1 Xử lý vết thương sau khi bị cắn

  • Vết thương cần được rửa và rửa ngay lập tức với xà phòng và nước trong 10 phút 15 phút. Nếu xà phòng không có sẵn thì xả nước. Đây là việc làm giúp sơ cứu hiệu quả nhất nguy cơ bị bệnh dại.
  • Vết thương cần được làm sạch hoàn toàn với 70% rượu/ethanol hoặc povidone-iodine (nếu có).
  • Càng sớm càng tốt, đưa người đó đến cơ sở chăm sóc sức khỏe để tiếp tục điều trị.

Những điều nên tránh: Áp dụng chất kích thích vào vết thương như ớt bột, nước ép thực vật, axit hoặc kiềm.Băng vết thương bằng gạc vết thương.

Xử lý vết thương sau khi bị động vật cắn
Xử lý vết thương sau khi bị động vật cắn

5.2 Theo dõi động vật gây ra vết thương

Thời gian ủ bệnh dại từ vài ngày đến vài tháng, trong khi thời gian bị bệnh – cho đến khi chết – thay đổi từ 1 đến 7 ngày.

Bệnh dại chó được đặc trưng bởi những thay đổi so với bình thường của nó hành vi, chẳng hạn như:

  • Cắn mà không có bất kỳ sự khiêu khích
  • Ăn các vật bất thường như gậy, móng tay, phân, vv
  • Chạy không có mục đích rõ ràng
  • Thay đổi âm thanh, ví dụ: khàn khàn và gầm gừ hoặc không có khả năng phát ra âm thanh
  • Tiết nước bọt hoặc tạo bọt quá mức ở các góc miệng – nhưng không phải hydrophobia (chứng sợ nước).

5.3 Theo dõi các dấu hiệu của bệnh trên cơ thể người

Việc làm này giúp chuẩn bị tốt nhất các biện pháp dự phòng bệnh, các biểu hiện thường gặp trước khi phát bệnh bao gồm:

  • Đau hoặc ngứa tại vị trí vết thương bị cắn (trong 80% trường hợp)
  • Sốt, khó chịu, đau đầu kéo dài trong 2- 4 ngày
Sốt, khó chịu, đau đầu kéo dài trong 2- 4 ngày là dấu hiệu của bệnh dại trên cơ thể người
Sốt, khó chịu, đau đầu kéo dài trong 2- 4 ngày là dấu hiệu của bệnh dại trên cơ thể người
  • Chứng sợ nước
  • Không dung nạp tiếng ồn, ánh sáng hoặc không khí
  • Sợ cái chết sắp xảy ra
  • Tức giận, khó chịu và trầm cảm
  • Ở giai đoạn sau, chỉ nhìn thấy kích thích co thắt ở cổ và cổ họng

5.4 Tiêm vacxin phòng bệnh dại (PEP)

Dự phòng bệnh dại sau phơi nhiễm (PEP) là bắt buộc nếu bạn bị chó, mèo hay động vật khác cắn bị bệnh dại hoặc nghi ngờ bị nhiễm bệnh dại. PEP được yêu cầu trong các điều kiện sau:

Nếu vết cắn đã làm vỡ da và vết thương là sự chảy máu.

Nếu màng nhầy tiếp xúc với nước bọt từ một động vật nghi ngờ.

Nếu con vật đã cắn ai đó:

  1. Bị giết
  2. Biến mất trong thời gian quan sát
  3. Hiển thị hành vi bất thường, thất thường
  4. Nếu xét nghiệm trong phòng thí nghiệm vật liệu não từ nghi ngờ hoặc động vật dại là dương tính.

Tiêm phòng dại cho thú nuôi là cách phòng ngừa bệnh dại lây truyền sang người. Những gia đình nuôi thú nuôi cần tiêm phòng cho chó ở 6 – 8 tuần tuổi và tiêm phòng cho mèo ở 8 tuần tuổi hoặc theo hướng dẫn của bác sĩ thú y.

Tóm tắt điều trị dự phòng người bị súc vật cắn

Tình trạng vết cắn Tình trạng súc vật
(kể cả súc vật đã được tiêm phòng)
Điều trị
Tại thời điểm cắn Trong 15 ngày
Da lành     Không điều trị
Da bị xước ở gần thần kinh trung ương Bình thường   Tiêm vắc xin
Có triệu chứng dại   Tiêm HTKD
  và vắc xin dại
Da bị xước nhẹ xa thần kinh  trung ương Bình thường   Theo dõi súc vật.
  ốm, triệu chứng dại Tiêm vắc xin ngay khi con vật có triệu chứng 
 Vết xước nhẹ, xa thần kinh trung ương Không theo dõi được con vật   Tiêm vắc xin ngay.
Có triệu chứng dại   Tiêm HTKD và vắc xin
– Vết thương gần não
– Vết thương sâu, nhiều
– Vết thương vùng đầu chi,
–  Bình thường
– Không theo dõi được con vật
  Tiêm HTKD và vắc xin phòng dại càng sớm càng tốt

bài viết liên quan

sản phẩm được yêu thích

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *